NHIỀU LẦN CHI CỤC BẢO VỆ THỰC VẬT TỈNH LÂM ĐỒNG LẤY MẪU KIỂM TRA VÀ PHÁT HIỆN TRONG KHOAI TÂY TQ CÓ TỒN DƯ THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT VƯỢT MỨC CHO PHÉP
I. Tổ chức chứng nhận ISO 9001 Kết quả cho thấy 1/24 mẫu rau được phân tích có hàm lượng hoạt chất thuốc bảo vệ thực vật Fipronil vượt ngưỡng cho phép
Ông Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, cho biết tình hình sử dụng thuốc BVTV hợp pháp xen lẫn thuốc bất hợp pháp còn xảy ra khá nghiêm trọng ở Việt Nam. Theo ông Bổng, thuốc BVTV bất hợp pháp ảnh hưởng đến sức khỏe, môi trường sinh thái, tăng trưởng nông nghiệp, thu nhập của nông dân... Do đó phải có biện pháp ngăn chặn.Cơ quan chức năng thu gom các chai thuốc BVTV bất hợp pháp trên các ruộng trồng rau muống ở TP.HCM. Ảnh: TRẦN NGỌCBà Phùng Mai Vân, Phó Trưởng phòng Thanh tra - Pháp chế, Cục BVTV Bộ NN&PTNT, cho biết trung bình mỗi năm cơ quan chức năng kiểm tra khoảng 500-600 cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV; bao ve thuc vat an giang len san phát hiện 12%-14% cơ sở vi phạm. Các vi phạm gồm kinh doanh thuốc cấm, giả, ngoài danh mục, không nguồn gốc...Bà Vân đề xuất Chính phủ sớm xây dựng và ban hành Luật Bảo vệ và kiểm định thực vật. Nhanh chóng sửa đổi, bổ sung kịp thời các quyết định pháp luật về quản lý thuốc BVTV, xây dựng chiến lược quản lý thuốc BVTV... TRẦN NGỌC. VIPA cũng sẽ đẩy mạnh việc phản biện, thẩm định xã hội về thuốc BVTV, góp ý kiến vào các văn bản pháp quy, hợp tác chặt với Cục BVTV trong việc quản lý thuốc BVTV; hợp tác quốc tế trong sản xuất kinh doanh. Đ.C.P..
Theo thống kê, toàn tỉnh An Giang hiện có khoảng 80.000 hộ cận nghèo. Trong thời gian qua, An Giang quan tâm tranh thủ nhiều nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước và Dự án Hỗ trợ y tế đồng bằng sông Cửu Long hỗ trợ 100% hộ nghèo và cận nghèo. Qua vận động có khoảng 10 nghìn hộ cận nghèo tự nguyện mua thẻ bảo hiểm y tế, số còn lại 70 nghìn hộ không có khả năng, đang được trợ cấp lần này. Nhờ có đợt cấp thẻ bảo hiểm y tế lần này, toàn tỉnh đã có 30% số dân được khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế. Loại rau nào là sạch? Hà Nội sẽ dán tem trên sản phẩm rau sạch Đưa rau sạch về khu khu tập thể Sự khác biệt giữa rau an toàn và rau sạch? Thu hàng trăm triệu đồng/hộ từ rau sạch. Sơ chế rau an toàn trước khi bán ra thị trường tại xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Các biện pháp sơ cứu Cần đọc kỹ nhãn về phòng chống độc. Bình tĩnh đưa nạn nhân ra xa nơi nhiễm thuốc, cởi đồ nhiễm thuốc và rửa sạch vùng da nhiễm thuốc. Gây nôn, nếu nạn nhân còn tỉnh táo và nhãn thuốc cho phép. Đặt nạn nhân nằm ổn định, giữ ấm nếu thấy lạnh. Trường hợp nạn nhân nóng quá, cần lau bằng khăn lạnh. Theo dõi nhịp thở, Bảo vệ thực vật an giang nếu ngừng thở thì làm hô hấp nhân tạo, phải kiên trì đến khi nạn nhân thở lại bình thường. Không cho uống sữa vì sữa làm thuốc thấm nhanh vào ruột, chỉ cho uống nước đun sôi để nguội hoặc nước trà đường loãng. Tuyệt đối không cho người bị nhiễm độc hút thuốc, uống rượu. Đưa nạn nhân đến nơi cấp cứu gần nhất và phải mang theo nhãn thuốc để nhân viên y tế biết loại thuốc BVTV nào để chẩn đoán, điều trị kịp thời.. Chứng nhận hợp quy phụ gia thực phẩm
Đại biểu Nguyễn Thùy Trang TP Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội trường. Sơ chế rau an toàn trước khi bán ra thị trường tại xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Bể được làm từ vật liệu composite, có hai ngăn và nắp đậy nên dễ sửa chữa và di chuyển. Ngoài ra, bể cũng có các bộ phận phụ trợ như cửa thu rác, phên nén để dìm bao bì trong dung môi xử lý hóa chất, van xả nước, các móc treo... Bể có kích thước 0,5m3/ngăn nhưng có thể thay đổi tùy thuộc vào quy mô và hình thức quản lý thu gom. Khi xử lý bao bì thuốc BVTV, có thể dùng hỗn hợp n-hecxan ở lượng 1,5-2 lít/1.000kg bao bì làm cho 99% dư lượng thuốc còn sót lại bị tiêu hủy. Theo ông Lê Hữu Lãnh, tiểu thương chuyên buôn hàng nông sản Trung Quốc và cả Đà Lạt về TP.HCM bán sỉ, có sự khác biệt rất lớn giữa mẫu mã bên ngoài của hàng nông sản Trung Quốc và nông sản sản xuất trong nước nói riêng, đặc biệt ở những mặt hàng thể hiện rõ rệt như gừng, tỏi, cà rốt... Theo đó, gừng Trung Quốc thường có hai màu vỏ là màu vàng và màu vàng pha trắng nhợt. Các củ gừng Trung Quốc có lớp vỏ nhẵn nhụi, căng mọng, củ to, đều, ít nốt sần sùi, được vệ sinh rất sạch sẽ. So với gừng trong nước, củ gừng Trung Quốc thường to gấp rưỡi, có khi gấp đôi. Gừng trồng trong nước lớp vỏ xỉn màu hơn, rễ và nốt sần sùi nhiều hơn. Gừng Trung Quốc đẹp vượt trội gừng VN nhưng mùi thơm thì gừng VN lại ăn đứt” hàng Trung Quốc. Tương tự, tỏi Trung Quốc có củ rất to, các tép tỏi cũng to, vỏ dễ bóc. Trong khi đó tỏi VN củ nhỏ hơn, các tép tỏi nhỏ và lớp vỏ khó bóc hơn. Tỏi VN dậy mùi hơn hẳn tỏi Trung Quốc ngay cả khi chưa được đưa vào chế biến. Cà rốt Trung Quốc cũng là mặt hàng rất dễ phân biệt bởi gần như toàn bộ đều có màu cam sặc sỡ hơn, vỏ mọng hơn và to đều, đẹp hơn cà rốt Đà Lạt. Ngoài ra, hàng Trung Quốc được nhập về VN hiện nay đa số đều xếp trong các xe container lạnh để đảm bảo độ tươi của sản phẩm. Hàng đông lạnh nên được cắt lá, rễ rất kỹ càng, khác hoàn toàn với nông sản trong nước vẫn còn để sót lại nhiều lá, rễ, cuống... Tuy nhiên, để chắc chắn không bị mua nhầm hàng Trung Quốc, các bà nội trợ nên mua ở những nơi bảo vệ thực vật có niêm yết xuất xứ trước mỗi khay hàng cụ thể. Tại các siêu thị, cửa hàng chuyên về nông sản, thực phẩm tươi sống... Nhà phân phối thường đề rõ vào bảng giá tên sản phẩm đi kèm xuất xứ.
II. Hợp quy Ống nhựa gân xoắn HDPE Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có Chỉ thị số 1504 và văn bản số 2388 ngày 11/8/2009 về tăng cường công tác quản lý thuốc bảo vệ thực vật trên rau
Cục Quản lý chất thải và Cải thiện môi trường Tổng Cục môi trường đã phân loại được 240 điểm hóa chất thuộc danh mục gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, kéo theo nhiều hệ lụy phức tạp. Một cuộc khảo sát gần đây tại 8 tỉnh cho thấy, thành phần ghi trên nhãn mác cũng cho thấy sản phẩm này chủ yếu làm từ bột mì chứ không phải là mút xốp như thông tin đã nêu. Khi hỏi cách sử dụng loại thuốc này, kiểm dịch thực vật hoạt động trên hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Trong khi đó tỏi VN củ nhỏ hơn, kết quả thì lại trông chờ vào việc thực thi của cơ quan chức năng..Cơ quan chức năng đã tạm giữ 70 chai Bioncin 8000 SC loại 100 ml, 100 chai thuốc trừ sâu Sagomycin 20 FC loại 100 ml, 92 chai Callilex 50SC loại 100 ml, 27 chai rầy Bascgde 50 EC loại 240 ml, 25 chai Hinosan 30EC loại 100 ml, 200 gói thuốc trừ cỏ và Oesta...Toàn bộ số hàng trên đã được tổ công tác niêm phong để làm thủ tục tiêu hủy theo quy định. Cạnh tranh khốc liệt Để tồn tại trên thị trường phân bón trăm hoa đua nở” như hiện nay, các doanh nghiệp phải có nhiều chiêu độc”. Gần đây, công ty sản xuất phân bón T.P.N huyện Củ Chi bị công ty T.L tố nhái” nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ độc quyền. Tuy nhiên, khi cơ quan chức năng kiểm tra thì phát hiện sản phẩm bị tố nhái” được sản xuất trước sản phẩm được bảo hộ, nên ai nhái của ai là cả vấn đề còn tranh chấp. Người tiêu dùng nên chọn mua hoa quả có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng để đảm bảo ATVSTP. Ảnh: PV. Đây là hoạt động nhằm thúc đẩy thực hiện Công ước Rotterdam về thủ tục thỏa thuận thông báo trước đối với một số hóa chất và thuốc BVTV nguy hại trong thương mại quốc tế. Hội thảo diễn ra trong 5 ngày từ ngày 7 đến 11-6, đại diện một số tổ chức quốc tế, bao ve thuc vat quốc gia tập trung bàn nhiều nội dung quan trọng như nâng cao nhận thức về cách áp dụng Quy trình thỏa thuận có báo trước, điều khoản trao đổi thông tin để đẩy mạnh công tác quản lý chất hóa học; tăng cường quan hệ hợp tác liên bộ thúc đẩy phương pháp tiếp cận tổng hợp đối với công tác quản lý chất hóa học cấp quốc gia; xây dựng chiến lược quốc gia về thực hiện Công ước Rotterdam...
Sử dụng thuốc BVTV không đúng phương pháp và liều lượng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe con người Sử dụng đúng, thuốc BVTV giúp đẩy lùi dịch hại, giữ năng suất cây trồng cao và ổn định. Nhưng trong quá trình lưu thông và sử dụng thuốc BVTV, nếu sử dụng không đúng và thiếu biện pháp phòng ngừa, thuốc sẽ gây những tác hại không nhỏ cho môi sinh và môi trường. Một thực tế đang tồn tại gây khó khăn cho việc quản lý thuốc BVTV ở nước ta là có quá nhiều tên thương mại của các loại thuốc trong khi nhiều loại không còn được sử dụng. Theo ông Trương Quốc Tùng, Hội Khoa học kỹ thuật BVTV Việt Nam hiện nay, trong danh mục của chúng ta có hơn 1.200 hoạt chất để chế tạo thuốc BVTV trong khi các nước khác trong khu vực như Thái Lan, Malaysia chỉ có từ 400 - 600 hoạt chất. Trong đó, có những hoạt chất có hàng trăm tên thương mại, giống như "ma trận” đánh lừa người dân. Chẳng hạn, hoạt chất Abamectin có tới 188 tên thương mại. Cùng với đó, trong cơ cấu thuốc BVTV, các loại thuốc có độ an toàn còn chiếm tỷ lệ thấp. Cụ thể, thuốc BVTV sinh học chỉ chiếm dưới 20%, loại thuốc có thời gian cách li dưới 7 ngày cũng chỉ chiếm khoảng 13. Trong những thập niên cuối của Thế kỷ 20 và những năm đầu của Thế kỷ 21, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trí tuệ con người làm cho nền sản xuất tăng nhanh, nhưng môi trường đất, nước và không khí bị ô nhiễm nặng. Ở Việt Nam vào những năm cuối của thập kỷ 80, số lượng số lượng thuốc BVTV sử dụng là 10.000 tấn/ năm, nhưng bước sang những năm của thập kỷ 90, số lượng thuốc BVTV đã tăng lên gấp đôi 21.400tấn/năm vào năm 1992, thậm trí tăng gấp ba 30.000 tấn/năm vào năm 1995 và diện tích đất canh tác có sử dụng thuốc BVTV đã tăng lên 80-90%. Trong số đó, thuốc trừ sâu chiếm tỷ lệ 68,33-82,20% trong tổng số lượng thuốc BVTV đã sử dụng. Thuốc trừ sâu cỏ chiếm tỷ lệ 3,30 - 11,90%. Các nhóm thuốc trừ cỏ, thuốc diệt chuột và các thuốc khác hiện được sử dụng với số lượng ngày càng tăng. Hiện nay đã có nhiều những tiến bộ trong công tác quản lý cung ứng, sử dụng thuốc BVTV, đặc biệt là từ khi Luật Bảo vệ môi trường thực thi vào tháng 4-1994. Các nhà sản xuất hóa chất BVTV đã đưa ra thị trường các sản phẩm đa dạng về chủng loại mẫu mã và được bao gói pha chế sẵn rất thuận lợi cho người sử dụng. Theo đó, hiện có 900 loại hóa chất BVTV thương mại và hơn 300 hoạt chất BVTV phân theo hoạt tính lưu hành trên thị trường Việt Nam với mạng lưới cung ứng đa dạng. Mặt khác, hiểu biết của người dân về sử dụng thuốc BVTV cũng tăng lên đáng kể. Từ đó đặt ra trách nhiệm của các nhà quản lý, sản xuất và cung ứng. Tuy nhiên, ở một số vùng sâu, vùng xa người dân vẫn chưa hiểu biết hết về sự nguy hiểm của thuốc BVTV, vẫn sử dụng thuốc và phân bón hóa học, các hoạt chất quá mức cần thiết và không đúng quy cách nên đất canh tác ngày càng xấu đi, dư lượng các phân bón hóa học và thuốc trừ sâu, diệt cỏ ngấm xuống tầng nước ngầm làm ô nhiễm các nguồn nước. Những năm qua, đã có một số công trình nghiên cứu, các dự án với dây chuyền công nghệ thiết bị hiện đại được triển khai để xử lý chúng và đã góp phần không nhỏ trong công tác bảo vệ môi trường, tuy nhiên do tính chất phức tạp của việc quản lý, xử lý các loại hóa chất này đã và đang trở thành thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trước những tác hại tiềm tàng của các loại thuốc BVTV với môi trường và sức khỏe cộng đồng, đồng thời để đáp ứng những yêu cầu về bảo vệ môi trường trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 184/2006/QĐ-TTg ngày 10 - 8- 2006 phê duyệt Kế hoạch quốc gia thực hiện Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy. Có thể nói, chúng ta đã có một hệ thống các quy định về quản lý thuốc BVTV. Tuy nhiên, trước thực tế đáng báo động do tác hại của thuốc BVTV gây ra, đã đến lúc cần xây dựng các quy định đồng bộ về quản lý tác hại của thuốc BVTV tới môi trường trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi. Nguyễn Sáng - Thanh Tùng. Vỏ bao đựng thuốc bảo vệ sau khi sử dụng tràn lan trên đồng ruộng. Tại Lào Cai, lượng thuốc BVTV các loại dạng lỏng và rắn được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng, năm 2008 là 58 tấn, năm 2009 là 65 tấn, năm 2010 là 75 tấn. Các loại thuốc BVTV ngoài danh mục cho phép gồm 20 chủng loại, trong đó nguy hại nhất là thuốc trừ cỏ và thuốc điều hòa sinh trưởng các loại cây trồng và rau xanh. Các loại thuốc BVTV này thẩm lậu qua biên giới, không có tem nhãn tiếng Việt, không ghi rõ hoạt chất. Riêng mẫu thuốc trừ cỏ, qua phân tích cho thấy hàm lượng hoạt chất độc hại cao gấp ba lần so với hàm lượng ghi trên bao bì. Đây là loại thuốc tiềm ẩn nguy cơ độc hại cao, nguy hiểm cho sức khỏe con người và môi trường. Từ năm 2007 đến nay, các cơ quan chức năng đã thu giữ và tiêu hủy 6,7 tấn thuốc BVTV ngoài luồng, có tính độc hại cao. Hầu hết thuốc BVTV sử dụng ở Việt Nam đều phải nhập khẩu từ nước ngoài. Trung bình, mỗi năm Việt Nam nhập khẩu trên bao ve thuc vat 70.000 tấn thành phẩm thuốc BVTV với giá trị 210-500 triệu USD, trong đó có tới trên 90% nhập khẩu từ Trung Quốc. Hằng năm, có 0,2-0,5% số thuốc BVTV nhập khẩu không đạt chất lượng theo quy định. Hiện, trên thị trường có khoảng 22.000 cửa hàng buôn bán hóa chất BVTV, nhưng có tới 20% cơ sở không có chứng chỉ, chủ yếu là các cửa hàng nhỏ lẻ, ở vùng sâu vùng xa.. Cần bảo vệ sức khỏe nông dânMột cuộc khảo sát mới đây của Bộ Tài nguyên- Môi trường cho thấy, có tới 96,6% nông dân sử dụng hóa chất BVTV quá mức và không tuân theo hướng dẫn sử dụng trên nhãn; chỉ có 4,8% nông dân biết cách tiêu hủy đúng cách hóa chất bỏ đi. Hầu hết nông dân sử dụng thuốc BVTV không đúng cách. Bên cạnh đó, có gần 95% số nông dân đổ các bình phun hóa chất còn thừa vào các rãnh, mương, phun vào các loại cây khác hoặc tiếp tục sử dụng đến hết. Khảo sát này cũng cho thấy, chỉ có 38,1% nông dân chôn bao bì hóa chất BVTV và gói chúng sau sử dụng, nhiều người khác vùi bao bì tại các cánh đồng, vào các kênh, rãnh, mương, ao hoặc bán cho người thu gom phế liệu hoặc sử dụng vào mục đích khác.Do đó, theo đánh giá, Việt Nam gần như chắc chắn là nước có số vụ và tỷ lệ dân số lớn bị ảnh hưởng sức khỏe nghiêm trọng do tiếp xúc với POP. Bởi sản xuất nông nghiệp hiện sử dụng tới hơn 2/3 lực lượng lao động ở Việt Nam và 1/3 giá trị xuất khẩu. Vì thế, việc loại bỏ hóa chất BVTV POP có tác động làm tăng khả năng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp do giảm ảnh hưởng đến sức khỏe nông dân.Hiện tại, trong khuôn khổ của Dự án Xây dựng năng lực nhằm loại bỏ hóa chất BVTV POP tồn lưu tại Việt Nam”, một số chương trình đã được triển khai như: Tập huấn cho cán bộ hải quan, nâng cao năng lực trong việc phòng ngừa và ngăn chặn việc nhập lậu hóa chất BVTV. Rà soát và xây dựng các dự án về quản lý tổng hợp/vòng đời hóa chất BVTV...Tuy nhiên, theo nhận định, để thực hiện chương trình này được toàn diện, chúng ta cần phát triển bền vững các chiến lược, chính sách, khung pháp lý và các kế hoạch dài hạn về Luật Môi trường được xây dựng với sự tham gia rộng rãi của người dân địa phương cùng các bên liên quan và thống nhất với các công ước môi trường quốc tế nhằm loại bỏ POP.Việc xử lý còn phức tạpCác kết quả khảo sát gần đây cho thấy, hầu hết hóa chất BVTV đã bị phát tán ra ngoài môi trường, gây ô nhiễm đất và nước tại khu vực xung quanh. Vì vậy, việc xử lý hóa chất BVTV POP tồn lưu đã phức tạp hơn nhiều, bao gồm cả việc xử lý hóa chất BVTV POP trong kho và xử lý lượng hóa chất đã phát tán ra môi trường.Mục tiêu của Dự án Xây dựng năng lực nhằm loại bỏ hóa chất BVTV POP tồn lưu tại Việt Nam” là sẽ tiêu hủy ít nhất 1.140 tấn hóa chất BVTV POP hiện có ở Việt Nam.Bên cạnh đó, công nghệ đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng là công nghệ duy nhất xử lý hóa chất BVTV POP được cấp phép tại Việt Nam với giá thành xử lý cao, chỉ có thể ứng dụng để tiêu hủy hóa chất nguyên bao hoặc đậm đặc. Với vùng đất ô nhiễm nên áp dụng các biện pháp khác để xử lý như xử lý vi sinh hoặc trồng cây.Do vậy, các nhà nghiên cứu đã đưa ra đề xuất cần: Cải thiện khung pháp lý và quy định cũng như nâng cao nhận thức của nông dân và công chúng nói chung. Tuy nhiên, có một thực tế hiện nay là năng lực của các cơ quan chức năng chính chịu trách nhiệm hợp tác hành động về POP Bộ TNMT và cưỡng chế thi hành luật, quy định liên quan tới nhập khẩu Tổng cục Hải quan và sử dụng Bộ NNPTNT hóa chất BVTV là không tương xứng. Điều này dẫn tới việc lưu giữ hóa chất nguy hại không hợp lý gây ô nhiễm khu vực lưu giữ và môi tường xung quanh.Hải Hà. PrimeFaces.cwInputText,widget_feedback_name,id:feedback:name;$functionPrimeFaces.cwWatermark,widget_feedback_j_idt99,id:feedback:j_idt99,value:Họ và tên,target:feedback:name,watermark;; PrimeFaces.cwInputText,widget_feedback_email,id:feedback:email;$functionPrimeFaces.cwWatermark,widget_feedback_j_idt101,id:feedback:j_idt101,value:Địa chỉ Email,target:feedback:email,watermark;;. Ảnh minh họa. Nguồn: Internet Được biết, trong quý I-2012 vừa qua, Bộ NN-PTNT đã tiến hành 70 đợt thanh tra, kiểm tra hoạt động sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV tại 1.670 bảo vệ thực vật cơ sở, trong đó có 111 trường hợp vi phạm các hành vi buôn bán thuốc không đủ điều kiện, thuốc vi phạm nhãn mác, thuốc quá hạn sử dụng. Lực lượng chức năng của Bộ cũng đã phát hiện 56 trường hợp với số tiền xử phạt là 125.460.000 đồng; kiểm tra 801 hộ nông dân sử dụng thuốc BVTV, trong đó có 125 hộ vi phạm về lĩnh vực này. Nhất Ngôn. Theo thống kê, toàn tỉnh An Giang hiện có khoảng 80.000 hộ cận nghèo. Trong thời gian qua, An Giang quan tâm tranh thủ nhiều nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước và Dự án Hỗ trợ y tế đồng bằng sông Cửu Long hỗ trợ 100% hộ nghèo và cận nghèo. Qua vận động có khoảng 10 nghìn hộ cận nghèo tự nguyện mua thẻ bảo hiểm y tế, số còn lại 70 nghìn hộ không có khả năng, đang được trợ cấp lần này. Nhờ có đợt cấp thẻ bảo hiểm y tế lần này, toàn tỉnh đã có 30% số dân được khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế.
III. ,Hợp chuẩn gạch xi măng lát nền Nếu chúng ta quản lý tốt nguồn đầu vào chất bảo vệ thực vật chắc chắn sẽ không xảy ra tình trạng rau củ quả dính” dư lượng chất bảo vệ thực vật tran lan như hiện nay
Cụ thể, Cục sẽ phối hợp với chính quyền xã, phường kiểm tra tại các cửa hàng buôn bán thuốc BVTV và các hộ nông dân việc chấp hành sử dụng thuốc BVTV, thời gian thực hiện từ nay đến hết ngày 15-12. Trong thời gian này, Cục sẽ chỉ đạo Thanh tra ngành các tỉnh tiến hành lấy mẫu thuốc và mẫu rau để kiểm tra chất lượng và dư lượng thuốc BVTV. UBND TP cũng yêu cầu các sở liên quan hướng dẫn các quận, huyện có sản xuất rau xây dựng kế hoạch để triển khai thực hiện quy hoạch vùng sản xuất rau tập trung trên địa bàn TP đến năm 2020, định hướng đến năm 2025; tăng cường tổ chức tập huấn, xây dựng và nhân rộng mô hình sản xuất rau an toàn theo VietGAP…. Phát hiện mẫu hồng và táo tươi không đảm bảo an toàn - Ảnh minh họa: Thanh Tao. Theo bà Nguyễn Thị Thơm, Ban Xã hội Dân số Gia đình Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, hiện nay, có 67,3% lao động nông nghiệp không sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân khi tiếp xúc với thuốc BVTV, khoảng 80% số người lao động vứt vỏ chai, bao chứa thuốc BVTV ngoài đồng ruộng. Lượng thuốc BVTV sử dụng trên một đơn vị diện tích đất canh tác vượt mức khuyến cáo 2,81 lần ở đồng bằng sông Hồng và 3,71 lần ở đồng bằng sông Cửu Long. Con số thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng cho thấy, chỉ tính riêng năm 2008, cả nước đã có 6.807 vụ nhiễm độc thuốc BVTV với 7.572 trường hợp, tử vong 137 trường hợp cao hơn so với năm trước 1,4 lần. Đáng báo động là con số trên mới chỉ thống kê được khi nạn nhân của các vụ ngộ độc phải vào viện điều trị, còn các trường hợp nhiễm độc từ từ và không phải nhập viện thì không thể thống kê hết. Còn theo kết quả điều tra của Đại học Quốc gia Hà Nội, cả nước hiện nay có khoảng 15-29 triệu người thường xuyên tiếp xúc với thuốc BVTV, nguy hại hơn, 70% trong số này có triệu chứng ngộ độc. Một lãnh đạo Vụ Y tế dự phòng Bộ Y tế cho biết, ngộ độc thuốc BVTV là một trong mười nguyên nhân gây tử vong cao nhất tại các bệnh viện, chỉ sau cao huyết áp, phổi và tai nạn giao thông. Nhiễm độc thuốc BVTV là nguy cơ người nông dân phải đối mặt hàng ngày. Không chỉ có nguy cơ cao nhiễm độc các loại hóa chất, thuốc BVTV, nông dân còn chiếm tỷ lệ tai nạn lao động cao. Phần lớn máy móc, thiết bị nông nghiệp đưa vào sử dụng thiếu các bộ phận che chắn an toàn, đa số người lao động chưa hiểu rõ và chưa nắm được các nguyên tắc về an toàn trong sử dụng điện và an toàn trong sử dụng máy móc nông nghiệp. Tai nạn lao động trong sử dụng điện và máy móc nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao: tần suất tai nạn hiện nay là 7,99 tức là cứ 100.000 người lao động thì có 799 lượt người bị tai nạn lao động, tần suất trong sử dụng máy móc thiết bị nông nghiệp là 8,56 tức là cứ 100.000 người lao động thì có 856 trường hợp bị tai nạn lao động. Riêng trong các trang trại đã có 22,6% số người bị tai nạn, trong đó 6,2% bị máy cán, kẹp.Những con số trên cho thấy mức độ nghiêm trọng trong vấn đề an toàn lao động cho nông dân. Tuy nhiên, nguyên nhân dẫn đến tình trạng này lại là do trình độ, nhận thức của người nông dân về vấn đề an toàn vệ sinh lao động còn thấp. Phần lớn người nông dân khi sử dụng thuốc BVTV không hiểu hết được mức độ nguy hiểm, độc hại của thuốc gây ra nếu như không dùng đúng cách, đúng liều lượng quy định… Bà Thơm nhận định, thói quen tâm lý, giản đơn trong lao động đã hạn chế người nông dân tiếp xúc với những kiến thức lao động chuyên môn và kiến thức về an toàn vệ sinh lao động. Một ví dụ khá điển hình là khi phun thuốc trừ sâu, nếu đúng quy cách, người nông dân phải sử dụng các phương tiện bảo hộ lao động như khẩu trang, găng tay, ủng… Nhưng nhiều người cho rằng, sử dụng những phương tiện đó chỉ thêm vướng và khó làm việc… Lao động nông nghiệp hầu hết chưa qua đào tạo nghề, họ thường làm việc theo yếu tố tự phát và dựa vào kinh nghiệm. Đây cũng là những thiệt thòi của người nông dân. Thực trạng đã đến mức báo động, nguyên nhân cũng đã rõ nhưng để thay đổi, thói quen lao động của người nông dân lại không dễ dàng. Theo TS. Đinh Hạnh Thưng, Trưởng ban Khoa học Công nghệ, Hội An toàn vệ sinh lao động Việt Nam, cần bảo vệ thực vật tăng cường biện pháp tổ chức quản lý, thanh kiểm tra an toàn vệ sinh lao động đối với nông nghiệp và nông dân. Đồng thời, phải tiến hành bổ sung chính sách an toàn vệ sinh lao động cho nông dân; bổ sung về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và UBND các cấp trong công tác an toàn vệ sinh lao động đối với nông nghiệp và nông dân; ban hành thông tư hướng dẫn về công tác an toàn vệ sinh lao động cho nông dân... Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất là phải tuyên truyền kịp thời để người dân nhận thức đúng và đầy đủ về mức độ nguy hiểm, mất an toàn trong lao động nông nghiệp .. Nhiều loại rau trên thị trường nhiễm chất độc vượt mức cho phép. VIPA cũng sẽ đẩy mạnh việc phản biện, thẩm định xã hội về thuốc BVTV, góp ý kiến vào các văn bản pháp quy, hợp tác chặt với Cục BVTV trong việc quản lý thuốc BVTV; hợp tác quốc tế trong sản xuất kinh doanh. Đ.C.P. Theo Bộ NN – PTNT, trong 5 tháng của năm 2014, giá trị nhập khẩu thuốc trừ sâu và nguyên liệu là 337 triệu đô la Mỹ, tăng gần 6% so với cung kỳ năm 2013. Thùy Dung Quang cảnh Hội nghị về tái cơ cấu ngành trồng trọt - Ảnh: Thùy Dung Tại Hội nghị Tái cơ cấu ngành trồng trọt diễn ra hôm nay ngày 23-9 tại Hà Nội, ông Phạm Đồng Quảng, Phó cục trưởng Cục trồng trọt, Bộ NNPTNT, nhận xét nguyên nhân chính của việc lạm dụng thuốc BVTV là do nhận thức, hiểu biết hạn chế của người sử dụng thuốc; quản lý nhà nước còn nhiều bất cập và tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún khiến công tác quản lý sử dụng thuốc cũng như tập huấn tuyên truyền các giải pháp kỹ thuật thay thế việc sử dụng hóa chất BVTV cho người sản xuất gặp rất nhiều khó khăn. Ở nước ta hiện ước tính có khoảng trên 10 triệu người sử dụng thuốc BVTV. Bình quân mỗi cán bộ BVTV phải kiểm tra, giám sát hướng dẫn cho khoảng trên 3.000 người sử dụng thuốc. Với lực lượng cán bộ kỹ thuật mỏng như vậy, người phun thuốc rất ít có cơ hội tiếp cận để được tư vấn, hướng dẫn”, ông Quảng nói. Trong khi đó, thuốc BVTV lại được buôn bán rộng khắp đến tận thôn ấp, nông dân chủ yếu dựa vào kê đơn” của người bán thuốc để quyết định việc sử dụng. Vì lợi nhuận, người bán thuốc thường tư vấn để bán được nhiều thuốc, dẫn tới tình trạng sử dụng quá mức, pha trộn nhiều loại thuốc. Theo ước tính, có tới 80% thuốc BVTV sử dụng sai mục đích, ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm và sức khỏe người tiêu dùng. Ông Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục BVTV, nói rằng chỉ tính trên cây lúa, có khoảng 9,3 triệu nông dân thường xuyên sử dụng thuốc BVTV để phòng trừ sâu bệnh trên ruộng lúa của mình. Nếu có sự liên kết, tổ chức sản xuất, hình thành tổ chức dịch vụ BVTV với trang thiết bị phù hợp thì chỉ cần 4 đến 6 người có thể phòng trừ dịch hại trên diện tích tương đương với 100 người như hiện bảo vệ thực vật nay. Khi số người sử dụng thuốc giảm tới 94%, sẽ góp phần quan trọng trong việc quản lý, sử dụng thuốc BVTV hiệu quả hơn nhiều so với hiện nay. Ông Hồng cho hay, để khuyến khích hình thành các tổ chức dịch vụ BVTV, Bộ NNPTNT đang xây dựng Đề án thí điểm phát triển dịch vụ BVTV giai đoạn 2015-2017”, theo đó, nhà nước sẽ hỗ trợ một lần kinh phí thành lập tổ đội dịch vụ BVTV, tập huấn nghiệp vụ về BVTV, mua tài liệu với mức không quá 2 triệu đồng cho mỗi thành viên của tổ dịch vụ; hỗ trợ một lần kinh phí thực tế mua máy phun rải thuốc với mức không quá 3 triệu đồng/10 héc ta ký hợp đồng dịch vụ; hỗ trợ thành viên của tổ dịch vụ BVTV 100% chi phí đóng bảo hiểm. Nếu được thông qua, đề án này sẽ được áp dụng ngay trong năm 2015 .
Cần thường xuyên tập huấn cho nông dân về kiến thức sử dụng an toàn và hiệu quả thuốc BVTV. Ảnh: Khánh Nguyên. CôngThương - Vấn đề nổi cộm nhất là theo dự thảo, các nhà gia công thuốc BVTV không được coi là nhà sản xuất. Theo các chuyên gia, hàng năm nước ta phải nhập khẩu tới 75% thuốc hoặc nguyên liệu để sản xuất thuốc BVTV. Thực tế này dẫn đến tình trạng không kiểm soát được về chất lượng, tính an toàn cho môi trường và giá cả… Năm 2013, cả nước phải chi 702 triệu USD nhập khẩu thuốc BVTV, riêng 7 tháng đầu năm nay đã nhập khẩu hết 475 triệu USD, trong đó 57% nhập khẩu từ Trung Quốc. Nguyên do là hầu hết các DN trong nước hiện nay chỉ là các nhà gia công thuốc BVTV. Tuy nhiên, nếu chỉ công nhận các nhà sản xuất, chính chúng ta đã tạo cơ hội lớn hơn cho các DN nước ngoài, các tập đoàn đa quốc gia chiếm lĩnh thị trường. DN trong nước sẽ bị xóa sổ, kéo theo nhiều hệ lụy phức tạp. Nếu mặt hàng thuốc BVTV phụ thuộc vào các công ty đa quốc gia, chắc chắn khi đó giá thuốc sẽ cao, tác động xã hội sẽ không nhỏ như đã từng xảy ra đối với mặt hàng sữa bột những năm gần đây. Đây đang là vấn đề khiến nhiều DN gia công phân bón trong nước bức xúc, trăn trở. Vì vậy, thông tư cần tạo sự bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh giữa DN trong nước và DN nước ngoài. Hiện nay, việc nghiên cứu ứng dụng chế phẩm sinh học trong phòng trừ sâu hại ở Việt Nam chủ yếu ở trong phòng thí nghiệm và quy mô sản xuất thử nên giá thành còn cao. Khả năng bảo quản thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học của nhiều doanh nghiệp còn chưa cao nên khó khăn trong việc bảo quản, lưu thông, phân phối và sử dụng. Trong khi đó, thông tư cũng chưa có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích việc đưa các chế phẩm sinh học vào đồng ruộng, thay thế dần các loại thuốc BVTV có hàm lượng cao. Theo Thạc sĩ Lê Quốc Điền Viện Nghiên cứu cây ăn quả miền Nam, giải pháp cấp bách cho vấn đề quản lý thuốc BVTV là phải có hướng dẫn cụ thể về chuyên môn đi đôi với quy hoạch xây dựng vùng chuyên canh hàng hóa lớn. Bên cạnh đó, tăng cường kiểm tra việc bao ve thuc vat an giang len san mua, bán và sử dụng các loại thuốc BVTV bị cấm hoặc hạn chế; tổ chức kiểm tra dư lượng thuốc BVTV trên rau, củ, quả tại các chợ đầu mối trong từng khu vực và cả nước để làm cơ sở đánh giá về quản lý thuốc BVTV tại các vùng, miền… Việt Anh PHẢN HỒI. Kết quả cho thấy 31 mẫu rau có dư lượng thuốc BVTV vượt mức cho phép chiếm 6,2%.Một số loại rau có tỉ lệ mẫu dư lượng thuốc BVTV cao như trái khổ qua, phân tích 50 mẫu có 10 mẫu có dư lượng vượt mức cho phép.Phân tích 50 mẫu rau má thì có 9 mẫu có dư lượng vượt mức cho phép. Đậu Cô-ve 6 trong số 50 mẫu có dư lượng thuốc BVTV vượt mức cho phép...Nguyễn Quý. Đến nay, nạn nhân của vụ ngộ độc thức ăn ngày 12/3 vẫn còn 33 người đang phải nằm viện. Vụ việc cũng khiến công nhân của Công ty giày Hong Fu và Công ty Rollsport đóng tại Cụm công nghiệp Hoàng Long, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa ngừng việc tập thể trong những ngày qua.Nhằm giải quyết sự việc, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Thanh Hóa, ông Lê Đình Thọ vừa chủ trì hội nghị bàn biện pháp giải quyết. Các đơn vị liên quan đều nhận định, để xảy ra tình trạng này là điều đáng tiếc, gây thiệt hại cho người lao động và doanh nghiệp, ảnh hưởng đến tình hình trật tự an toàn xã hội; xác định nguyên nhân chủ yếu là do công tác quản lý Nhà nước về cụm công nghiệp, về vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh an toàn lao động chưa chặt chẽ .. ,Hợp chuẩn gạch bê tông khí chân áp ACC 0903 587 699
Các sản phẩm này chủ yếu là của Trung Quốc. Hiện Cục BVTV đang phối hợp với cơ quan quản lý nông dược Trung Quốc để kiểm tra các loại hóa chất và sẽ cử các đoàn công tác sang các vùng sản xuất trái cây của Trung Quốc để giám sát chất lượng và an toàn thực phẩm.Lê Hân. DowJones 15,334.59 -66.79 ▼ 0.44 Crude Oil 103.36 +0.23 ▲ 0.22 Gold 1,325.50 +9.20 ▲ 0.69. Tìm nguyên nhân mất nguồn nước sinh hoạt hàng trăm hộ dân ở Phú Yên Biến đổi địa chất bất thường tại Lâm Đồng Khi trưởng thôn làm công tác dân số Vận hội chờ khai mở Những giờ học nắng mưa và trái tim người thầy Rắc rối ở dự án khai thác nước ngầm Phụng Châu Hiệu quả từ chủ trương xã hội hóa bao ve thuc vat Tích cực triển khai Dự án Ðường dây 500 kV Sơn La - Lai Châu Bởi ông là Ðại tướng của lòng dân Nhiều hoạt động vui Tết Trung thu. Theo báo cáo, hầu hết thuốc BVTV sử dụng ở Việt Nam đều phải nhập khẩu từ nước ngoài, chủ yếu từ Trung Quốc với mỗi năm hơn 70.000 tấn thành phẩm, giá trị tương đương 210 - 500 triệu USD. Qua kiểm tra có khoảng 0,6-0,8% các lô hàng không đạt chất lượng, buộc phải tái xuất hoặc tái chế. Riêng kiểm tra chất lượng thuốc BVTV tại các cơ sở sản xuất, gia công, sang chai, đóng gói và lưu thông trên thị trường đã phát hiện mẫu không đạt chất lượng chiếm từ 3-10,2% số mẫu kiểm tra. Đáng báo động là tình trạng buôn lậu thuốc BVTV qua đường tiểu ngạch hiện gia tăng, khó kiểm soát, nguy cơ nhất là thuốc nằm trong danh mục cấm sử dụng như thuốc trừ cỏ Butachlor, thuốc trừ sâu Methamidoph, thuốc diệt chuột các loại, đồng thời việc sử dụng dùng thuốc BVTV cũng có xu hướng lạm dụng quá mức, trong khi khâu quản lý còn rất nhiều bất cập, lỏng lẻo. Q.S .